Kiến trúc Nghệ_thuật_Việt_Nam_thời_Mạc

Cung đình

Tại Thăng Long, nhà Mạc tiếp quản gần như toàn bộ các công trình cung điện của nhà Hậu Lê để lại, không xây cất thêm nhiều và cũng ít tu bổ. Một trong những lý do Thăng Long ít được xây cất và tu bổ vì chiến sự xảy ra thường xuyên, các vua Mạc nhiều lần phải chạy về Dương Kinh trước sự uy hiếp của Nam triều[1].

Những công trình cung đình quan trọng thời Mạc chủ yếu ở Dương Kinh (nay thuộc Hải Phòng) - quê hương nhà Mạc. Tại Dương Kinh, Mạc Thái Tổ sai xây dựng điện Phúc Huy, điện Hưng Quốc, điện Sùng Đức. Ngoài ra tại Cổ Trai, nhà Mạc cho xây dựng cung điện nguy nga làm chỗ triều kiến quan lại. Vùng Dương Kinh còn tập trung nhiều lăng mộ vua nhà Mạc, nhưng đến khi nhà Lê trung hưng đã phá huỷ toàn bộ các công trình kiến trúc tại khu vực này.

Chùa, đạo quán

Tính trong tổng số 195 công trình thời Mạc thì 142 công trình kiến trúc là chùa, chủ yếu là tôn tạo. Tiêu biểu nhất trong các công trình thời kỳ này là chùa Bà Tấm ở Gia Lâm (Hà Nội) xây dựng từ thời Lý, chùa Cập Nhất ở Thanh Hà (Hải Dương) xây thời Lý; chùa Bối Khê ở Thanh Oai (Hà Nội) xây dựng từ thời Trần, chùa Trăm Gian ở Chương Mỹ (Hà Nội) xây dựng từ thời Trần, chùa Phổ MinhMỹ Lộc (Nam Định) xây từ thời Trần

Theo con số thống kê của các nhà nghiên cứu, công trình xây và tu bổ chùa thời Mạc gồm có: Hải Phòng 27 chùa; Hải DươngHưng Yên 36 chùa; Hà Tây cũ 28 chùa.

Ba đạo quán có dấu tích từ thời Mạc còn đến nay là quán Hưng Thánh, quán Hội Linh và quán Linh Tiên đều nằm trên địa phận Hà Nội. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu qua tư liệu văn bia cũng xác định một số công trình đạo quán khác được trùng tu thời kỳ này gồm quán Thụy Ứng, quán Đế Thích, quán Chân Thánh (Hưng Yên), quán Viên Dương (Hà Nội), quán Tiên Phúc (Hải Dương). Bố cục bài trí và kiến trúc các đạo quán này về đại thể tương đồng với các chùa miếu đương thời.

Đình làng

Trong các loại hình kiến trúc cổ Việt Nam, đình làng là loại hình mang nhiều nét bản địa nhất. Đình làng trước kia để làm nơi nghỉ ngơi, nhưng bắt đầu có tư cách là trung tâm hành chính, sinh hoạt cộng đồng làng xã của người dân từ thời nhà Mạc[2].

Hai ngôi đình nổi tiếng nhất thời kỳ này là đình Đông Lỗ (xây năm 1576) và đình Tây Đằng (xây năm 1583). Ngoài ra, còn các đình Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Giang), Thanh Lũng (Ba Vì, Hà Nội), Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Nội) và La Phù (Thường Tín, Hà Nội). Tuy nhiên, qua nhiều lần trùng tu, dấu tích từ thời Mạc không còn[3].

Bố cục của đình làng khá đơn giản, gồm một toà đình hình chữ nhật với một gian hai chái (đình Tây Đằng, Thanh Lũng) hoặc ba gian hai chái (đình Lỗ Hạnh, Thổ Hà). Gian giữa là nơi tiến hành nghi lễ khi rước bài vị thần từ miếu trở về, hai bên là nơi hội họp và làm lễ hội. Trừ phần mái, các phần khác của đình đều làm bằng gỗ, được chạm khắc khá tinh xảo. Các hình khắc chạm khá phong phú như rồng, phượng, hoa sen hoặc mô tả cảnh sinh hoạt, hội hè.